Để đưa một vụ án hình sự ra xét xử cần trải qua rất nhiều giai đoạn tố tụng với sự tham gia của nhiều cơ quan. Nhiều người thắc mắc quy trình xử lý một vụ án hình sự cụ thể như thế nào?
Quy trình xử lý một vụ án hình sự được sử dụng từ ngữ pháp lý là các giai đoạn tố tụng hình sự. Mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau sẽ do các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, người tiến hành tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, quy trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu tội phạm
Theo quy định tại Điều 144, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, định nghĩa về tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau:
”1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
- Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
- Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.”
Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức phát hiện các hành vi, thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm phải kịp thời thông báo cho cơ quan có thẩm quyền. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (viết tắt là tin báo) phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Theo Khoản 2, Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
“a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.”
Sau khi tiếp nhận tin báo, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tin báo (không quá 02 tháng đối với các tin báo phức tạp), Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sẽ kiểm tra, xác minh và ra các quyết định sau:
– Không khởi tố vụ án hình sự đối với tin báo đó. Khi các tin báo đó có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
“Điều 157. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.””
– Tạm đình chỉ giải quyết tin báo khi có một trong các căn cứ theo Khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
“a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;
b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.”
– Khởi tố vụ án khi xác định tin báo có dấu hiệu tội phạm. Và chuyển sang giai đoạn tiếp theo.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên mà cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tiến hành xác định có các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
Giai đoạn Điều tra vụ án hình sự
Là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về thẩm quyền điều tra được quy định tại Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
“Điều 163. Thẩm quyền điều tra
- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
- Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.”
Để đảm bảo vụ án hình sự được xử lý trong một thời hạn nhất định, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định thời hạn điều tra tại Điều 172 như sau:
“1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.”
Tuy nhiên có nhiều vụ án có tính chất phức tạp, nhiều đối tượng tham gia và nhiều vấn đề cần phải xác minh, thì vụ án đó được phép gia hạn điều tra như sau:
2. “a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.”
3. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.”
Trong quá trình điều tra và các giai đoạn tố tụng sau đó, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Khi đủ chứng cứ, cơ quan điều tra sẽ ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố để kết thúc quá trình điều tra.
Giai đoạn Truy tố vụ án hình sự
Là giai đoạn mà Viện kiểm sát thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự. Căn cứ vào các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do cơ quan điều tra chuyển đến, trong đó Viện Kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết để đánh giá vụ án một một cách toàn diện, khách quan.
Trong thời hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Viện kiểm sát sẽ ban hành một trong các quyết định sau:
– Khi có đủ căn cứ để tiến hành truy tố bị can, Viện Kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng.
– Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp theo quy định tại Khoản 1, Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
“a) Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố;
b) Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật này;
c) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả”.
– Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự.
Giai đoạn Xét xử
Giai đoạn xét xử sơ thẩm được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Trong giai đoạn này, Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành:
1) Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử,
2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo.
Trình tự xét xử tại phiên tòa bao gồm: Khai mạc, xét hỏi, tranh luận trước tòa, nghị án và tuyên án. Khi kết thúc phiên tòa hội đồng xét xử ra bản án hoặc các quyết định.
Nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo (tức là khi đương sự không đồng ý với phán quyết của tòa sơ thẩm thì có quyền yêu cầu tòa cấp trên xét xử một lần nữa theo trình tự phúc thẩm), kháng nghị (tức là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án) thì vụ án sẽ được Tòa án cấp trên đưa ra xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Việc này sẽ đảm bảo cho sự công bằng, nhân đạo, đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo… cũng như để tránh các sai lầm có thể xảy ra khi Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên bản án sơ thẩm.
Giai đoạn thi hành bản án của Tòa án.
Đây là giai đoạn cuối cùng trong hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của tòa án được thi hành trên thực tế một cách kịp thời và chính xác. Trong đó buộc người bị xử phạt tù phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã quyết định.
Điều 364 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án như sau:
“1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2.Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án.
3.Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để thi hành án.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.”